Kiến trúc làng quê truyền thống ở Bắc bộ đứng trước nguy cơ bị phá vỡ Khi tốc độ thị thành hóa diễn ra mạnh mẽ, kiến trúc nông thôn Việt Nam biến đổi mau chóng, đặc biệt là nông thôn miền Bắc
Ven con đường làng nhỏ bé được xây dựng những dãy nhà như bao diêm giống đô thị, cái nhô lên, cái thụt xuống. Đầm phá, ao hồ ngày một bị thu hẹp hoặc bị lấp dần. Ông Vũ Đăng Tuấn, thôn Cự Đà, chia sẻ: “Trước đây, thôn có nhiều ngôi nhà cổ hàng trăm năm tuổi với mái ngói thâm nâu. Làng được bao bọc bởi những lũy tre xanh, sau lũy tre là những mái nhà tranh êm ấm. Thay thế dần vườn cây, ao cá, nếp nhà bình dị.
Không gian thị thành đương đại đang dần lấn lướt không gian truyền thống làng quê. Khuôn viên vườn thường có quy mô nhỏ gồm nhiều loại cây, rau. Mặc dầu chúng ta cũng phải dấn rằng quá trình tỉnh thành hóa và kiến trúc đương đại với sự thuận tiện của nó cũng đã góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân nông thôn với những trang thiết bị đương đại.
Để tạo không gian mát lành cho ngôi nhà, người xưa đã biết sử dụng tán cây, trồng những giàn cây leo quanh nhà như mướp, bầu bí… tạo thành các tấm che nắng tự nhiên, vừa tránh nắng nóng cho người và gia súc, chống chói do phản xạ từ các bức tường quét màu sáng quanh nhà, vừa lấy rau quả làm thức ăn. Nhà ở của cư dân đồng bằng Bắc bộ thường được làm bằng khung xoan, mít hay tre có kết cấu kiên cố với vì kèo ba bốn cột, kết liên bởi xà ở đầu và bậu ở chân cột.
Chẳng bao lâu nữa, chúng sẽ bị đốn ngã, xóa sổ để xây dựng những ngôi nhà mới. Là một trong hai ngôi làng cổ của Hà Nội, làng Cự Đà thuộc xã Cự Khê (huyện Thanh Oai), cũng đang phải đối mặt với tình trạng kiến trúc bị phá vỡ.
Vốn gần biển, trong khu vực gió mùa nên trong bốn hướng chỉ có hướng nam là tránh được nắng chiều hướng tây (nắng xiên khoai), gió lạnh từ phương bắc (gió mùa đông bắc), bão từ phía đông và hứng được gió nồm thổi đến từ phía nam vào mùa nóng. Người Việt rất quý trọng việc chọn địa điểm làm nhà, dựa trên kinh nghiệm và sự hiểu biết về vùng đất ngụ cư sinh sống, sao cho thuận tiện để tận dụng giá trị của đất.
Mô hình kiến trúc khuôn viên nhà nông thôn Bắc bộ Quá trình xây dựng nhà ở nông thôn vùng đồng bằng Bắc bộ xưa là sự tích lũy vốn sống ngàn đời của người dân cày, nhà cửa của họ khi xây dựng phải phù hợp với môi trường tự nhiên, tựa vào tự nhiên tạo nên một hệ sinh thái vững bền. Tiên sư cha ta đã đúc kết nhiều kinh nghiệm quý trong quá trình từ chọn đất, chọn hướng đến xây dựng nhà ở, tỉ dụ “Lấy vợ hiền hòa, chọn nhà hướng nam”.
Người nông dân tận dụng thời kì nông nhàn tăng gia sản xuất, trồng hoa màu cung cấp thêm nguồn thực phẩm và nhu cầu khác cho gia đình khi mà việc trồng lúa theo mùa vụ không đủ bảo đảm nhu cầu cho cuộc sống. Xoan, mít hay tre sau khi được chọn lọc, để tránh bị tượng mối mọt và tăng độ bền, trước khi dựng nhà người ta thường mang đi ngâm ở các ao, hồ khoảng 1-2 năm.
Dù đường chưa mở mang nhưng Cự Đà hiện nờm nợp quán hàng. Kiến trúc nhà ở nông thôn vùng đồng bằng Bắc bộ xưa khá giống nhau, đó là những ngôi nhà một tầng đơn sơ, nền làm sát mặt đất, nguyên liệu cốt yếu là tre, nứa lá, rơm rạ. Những cánh đồng mạnh tay cò bay đã bị thu hẹp dần trước sự nở rộ của các khu công nghiệp, khu thị thành mới. Vì thế các cụ đã đúc kết khi chọn lọc trồng cây cạnh nhà “trước cau sau chuối”.
Vốn là nét đẹp đặc trưng của làng quê Việt. Hiệp với vận mạng của từng gia chủ khi đặt móng xây nhà. Nhiều ngôi nhà cổ tầm 300 năm tuổi lặng lẽ bị “dìm chết” bởi thời gian, hoặc bị bỏ rơi. Ngôi nhà thường chiếm tỉ lệ khá nhỏ so với diện tích khuôn viên, phần lớn được làm sân vườn trồng rau, hoa màu và cây ăn quả, làm hàng rào… tạo nguồn rau tươi, bóng mát có tác động điều hòa môi trường, che nắng, gió và chắn tầm nhìn vào nhà.
Ngôi nhà từ xưa đến nay trong quan niệm của người Việt không chỉ là nơi che nắng che mưa, mà còn là mái ấm gìn giữ văn hóa truyền thống, nét đẹp của gia đình, nơi nuôi dưỡng tâm hồn Việt.
Mái của ngôi nhà được thiết kế có độ dốc lớn để thoát nước mưa và tránh dột, tận dụng không gian từ độ dốc lớn làm thành gác, kệ lửng thêm chỗ để kho chứa thóc lúa, ngô khoai
Qua cổng làng, ta sẽ bước vào thế giới làng với hệ thống đường ngang ngõ tắt như xương cá, dù đi đến đâu, thì nhà nào nhà nấy cứ mở cổng là gặp ngõ, qua ngõ là đường làng. Đây cũng là kinh nghiệm đúc rút qua nhiều năm, nhiều thế hệ của cư dân nơi đây, tạo nên nét kiến trúc độc đáo trong việc xây dựng không gian đời sống văn hóa mà biểu tượng là khuôn viên ngôi nhà gắn với cảnh sắc và con người, tạo nên biểu trưng về văn hóa làng quê Việt.
Kho tàng văn hóa và nghệ thuật kiến trúc độc đáo của dân tộc Hình ảnh cây đa, bến nước, sân đình, đến lũy tre rủ bóng mát trên đường làng, hay vườn cây, ao cá.
Kinh nghiệm dân gian cho thấy cái lý của người xưa khi ứng xử với khí hậu thời tiết: trồng cây lá rậm, lá to như cây chuối ở mặt nhà phía bắc để ngăn gió lạnh vào mùa đông, cản bức xạ ác vào mùa hè (lúc này ác ở hướng bắc); trồng cây có thân cao như cây cau ở phía nam của nhà để không cản trở gió mát mùa hè cũng như chơi che ánh nắng chiếu vào nhà về mùa đông (mùa đông, màng tang ở hướng nam).
Phần tường bao quanh nhà vừa bảo vệ, ngăn chia không gian, vừa cách nhiệt - nhất là hướng tây, để có những giải pháp trang trí phối hợp với cách nhiệt điều tiết khí hậu như các ô thông, cửa sổ, tường quét vôi màu trắng hoặc để nguyên màu thiên nhiên của vật liệu, tường gạch không tô trát mà chỉ miết mạch, tạo cảm giác khang trang mát mẻ trên nền cây cối xanh tươi, bớt đi cái nóng nực của mái ngói, sân gạch.
Nhưng từ khi thành đất Thủ đô thì ngôi làng tĩnh hiền hòa này đã thay đổi chóng vánh”. Tuy nhiên để giữ được những nét đẹp truyền thống và bình dị nơi thôn dã mà không phá vỡ đi kiến trúc truyền thống từ ngàn đời xưa ở vùng đồng bằng châu thổ sông Hồng đòi hỏi các nhà khoa học, các nhà quản lý cần có những nghiên cứu, biện pháp quy hoạch kiến trúc khu vực nông thôn sao cho hợp lý, vừa giữ được nét đẹp văn hóa truyền thống nhưng vẫn mang hơi thở của cuộc sống đương đại, để thế hệ sau còn biết đến và hiểu về văn hóa làng quê Việt Nam qua cuộc sống trung thực ở chính nơi được gọi là làng quê Việt.
Hình ảnh những nếp nhà ngói rêu phong, lũy tre xanh và chiếc cổng làng vốn thân quen với người dân dần nhạt phai, trở nên những nơi hội tụ đông dân cư, khó có thể xác định được đâu là thị tứ, thị trấn hay nông thôn. Những ngôi nhà cao tầng với bê tông cốt thép mọc lên càng ngày càng nhiều, thay thế những ngôi nhà mang kiến trúc truyền thống.
Trong làng, hiện nhiều đoạn đường đã không còn lát gạch xếp nghiêng mà thay vào đó là đường bê -tông. Khuôn viên nhà gồm: qua cổng đến vườn cây, vào đến sân rồi mới đến nhà chính, nhà phụ, nhà bếp, khu vệ sinh, chuồng nuôi gia súc, trâu bò, vườn sau ao trước, hàng rào cây bao quanh, bên ngoài bao bọc bởi lũy tre làng.
Từ đó tạo nên hiên nhà giúp che nắng (tránh ánh nắng dữ chiếu thẳng vào trong nhà), song song nới rộng không gian dùng tiện ích cho ngôi nhà. Chất liệu lợp mái tùy thuộc vào điều kiện kinh tế của từng gia đình mà có thể là ngói hoặc tranh. Mái đưa ra xa chân tường vừa tạo nên bóng râm vừa tránh mưa hắt vào các chân cột gỗ và tường đất nện.
Nhà thường được làm với kết cấu ba gian hai trái, đối với những nhà khá giả thì có thể nhiều hơn và nguyên vật liệu làm khung nhà được chọn có thể là những cây gỗ tốt hơn.
Dịch vụ tham vấn nhà đất xuất hiện, các quán cà phê, internet mọc lên. Cổng được xây bằng gạch, đứng sừng sững, tôn nghiêm như chứng tích thời gian, ghi dấu bao kỷ niệm vui buồn của một đời người. Đối với tường bằng đất nện thì được làm rất dày tạo sự ấm cúng về mùa đông, mát mẻ về mùa hè. Nhà cửa, ngõ xóm và không gian làng quê xưa không được quy hoạch, gây nên sự hỗn độn, chen chúc, phá vỡ quang cảnh thôn quê vốn dĩ phông, thái bình.
Cây trồng trong vườn gồm nhiều loại có giá trị cho cuộc sống bình thường của người Việt: loại cây tạo nguồn thực phẩm rau màu, cây ăn quả, cây gia vị, cây phục vụ lễ nghi, cây làm thuốc… Như vậy, cách ứng xử với các nguyên tố tự nhiên cho thấy khả năng thích nghi và chủ động của người dân vùng châu thổ sông Hồng trong đối phó và tận dụng tự nhiên khi xây dựng không gian cư trú, miêu tả sự hòa hợp hoàn toàn với tự nhiên.
Tạo nên mô hình sinh thái khép kín vườn - ao - chuồng. Ngoại giả, ông cha ta cũng còn dựa vào thuyết phong thủy để tìm những thế đất tụ linh, tụ phúc.
Ngày trước, muốn vào làng, người dân phải đi qua cổng làng. Ngôi nhà truyền thống nông thôn Bắc bộ với sân vườn cây trái Thực trạng ở các làng cổ đã vậy, ở nhiều vùng nông thôn khác, sự biến đổi chắc còn mạnh mẽ hơn.
Việc trồng cây quanh nhà, tạo thành vườn, làm hoa viên, ngoài chức năng tạo bóng mát, cải tạo khí hậu, trang trí… người ta còn tính đến việc vỡ hoang giá trị kinh tế. Theo tập san Quê hương.