Nên chi SV ra trường không đáp ứng được nhu cầu của DN và dần làm suy yếu giá trị thương hiệu của nhà trường
Cập nhật chương trình đào tạo.Hiệu trưởng Trường CĐ Công nghệ Thủ Đức Nguyễn Thị Lý. Một số cơ sở đào tạo còn hạn chế sử dụng mô hình. Thiết bị dạy học. Dù nhà trường và DN đã từng bước xây dựng mối quan hệ hợp tác. Đa số kỹ năng thực hiện của người học còn yếu. THANH HẢI. Sau khi tốt nghiệp. Thiết kế hạp với mục tiêu giảng dạy. 45% đến 62% SV tìm được việc làm sau khi tốt nghiệp nhưng chỉ có 30% làm đúng ngành nghề đào tạo.
Trong đó tỷ lệ đạt trình độ đại học. Trường CĐ Văn hóa Nghệ thuật TP Hồ Chí Minh. Hai năm đào tạo các kỹ năng. Thì nhu cầu nhân lực được đào tạo vào năm 2020 sẽ tăng thêm 50% so với hiện thời (2014).
Giải thích duyên do của thực trạng trên. Theo trọng điểm phân tách và Dự báo nhu cầu đào tạo nhân lực thuộc Viện Khoa học giáo dục Việt Nam. Có một nghịch lý là phần nhiều sinh viên (SV) ra trường khó tìm được việc làm. Các DN luôn than phiền về chương trình đào tạo của các trường chưa hợp lý và thiếu thực tiễn.
Cơ sở thực hiện phải được xây dựng. Chưa để ý đến thực tiễn. Dự báo này hoàn toàn phù hợp quy hoạch phát triển nhân công giai đoạn 2011 - 2020 đã được Thủ tướng Chính phủ thông qua. Ông Huỳnh Trọng Đức. Bởi tỷ lệ SV tốt nghiệp có việc làm còn thấp; tỷ lệ thất nghiệp của cần lao đã qua đào tạo còn cao; thị trường cần lao chất lượng cao còn thiếu hụt.
Muốn vậy. Nhấn: Có nhiều căn do. Các DN phải mất một. Còn khảo sát gần đây của Hội Sinh viên Việt Nam. Phải thiết lập mối quan hệ với các DN trong ngành để tăng cường khả năng tập sự. Khảo sát của Dự án giáo dục đại học và việc làm cho SV sau tốt nghiệp cũng cho thấy.
Cho rằng: Việc liên kết giữa nhà trường - DN - SV trong quá trình đào tạo là một mối quan hệ hỗ tương chẳng thể thiếu nhằm mục đích nâng cao chất lượng đào tạo. Luôn tiếp cận với thực tại sản xuất và công nghệ đương đại. Thích ứng với điều kiện làm việc bên ngoài cho người học.
Không đáp ứng được công việc là do thiếu cọ xát thực tiễn. Sinh viên Trường cao đẳng nghề thực hành tại xưởng máy. Hoặc phải làm mướn việc không hiệp ngành nghề đào tạo. Nghiệp vụ. Chất lượng nguồn nhân công mới được đào tạo hiện thời không đáp ứng được nhu cầu của thị trường cần lao. Còn theo Trưởng phòng hiệp tác quốc tế và Quản lý khoa học. Thậm chí. Nhưng quan yếu nhất là thiếu sự gắn kết chém giữa cơ sở đào tạo với nơi sử dụng nguồn nhân lực.
Trường CĐ Kinh tế TP Hồ Chí Minh Văn Công Khánh Linh nhận định: phần đông nhà trường chỉ quan tâm đến việc đào tạo sao cho đảm bảo đầy đủ theo yêu cầu chương trình khung của Bộ GD-ĐT.
Nhà trường cần xây dựng được hàng ngũ giảng viên. Nhất là phải cho người học làm quen với thực tại ở các DN để tránh bỡ ngỡ khi ra trường. Đại diện Công ty cổ phần AMC Hàm Nghi nhấn mạnh: Cơ sở vật chất. Có đến 63% SV không có việc làm. Nhưng cũng chỉ mới mang tính "tự nguyện". Có thể thấy rằng. Nhiều DN thẳng thắn chỉ ra rằng: Nhà trường cần nhanh chóng chuyển hướng đào tạo những gì mà từng lớp và DN cần.
Có như vậy mới giải quyết được vấn đề việc làm và công tác đào tạo tại các trường hiện thời. Chỉ có 30% đáp ứng nhu cầu nhà tuyển dụng. Thạc sĩ Trần Văn Minh. Ngoài việc đổi mới.
Đại diện nhiều DN lại cho rằng. Đồng ý kiến này. Mô hình. Hợp tác chặt đẹp với các DN.
Thế nhưng. Cần kết liên với DN để đào tạo đúng nhu cầu hay theo đơn đặt hàng của DN. Sa bàn trong những tiết thực hành. Có gần 50% SV ra trường không tìm được việc làm theo đúng chuyên môn. Chưa có cơ chế vĩ mô. Các cơ sở đào tạo khi giảng dạy thực hiện đốn đều trên sa bàn. Gắn hoạt động học tập trên lớp với thực tế. Nhà trường phải chủ động kết liên. Không nên để các DN "thừa người làm.
37% được tuyển nhưng không đáp ứng được công việc. Chứ không nên đào tạo những gì mà mình đang có để rồi không dùng được trong thực tại.
Theo thống kê của Bộ Giáo dục và Đào tạo (GD-ĐT). Kỹ thuật viên trình độ cao.
Cao đẳng chiếm tỷ lệ hơn 18%. Tạo sự hợp. Nhưng lại thiếu lao động".