QĐND - Ngay sau khi giành được độc lập (1945), chủ toạ Hồ Chí Minh đã chỉ rõ, vấn đề có tính nguyên tắc trong chính sách tôn giáo của ViệtNam là: “Tín ngưỡng tự do và lương giáo đoàn kết”. Tư tưởng ấy của chủ toạ Hồ Chí Minh được Đảng và quốc gia Việt Nam biểu hiện trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng. Quan hoài đến công tác tôn giáo, chăm lo đời sống vật chất, ý thức của quần chúng nói chung và đời sống của đồng bào các tôn giáo nói riêng là một trong những nguyên tắc lãnh đạo, quản lý tầng lớp và điều hành giang san của Đảng Cộng sản Việt Nam. Hiến pháp trước hết của Việt Nam năm 1946 đã khẳng định quyền của người dân Việt Nam: “Mọi công dân Việt có quyền tự do tín ngưỡng” (Chương II, mục B). Điều 80 Hiến pháp 1980 ghi rõ: “Công dân có quyền tự do tín ngưỡng, theo hoặc không theo một tôn giáo nào. Không ai được lợi dụng đạo để làm trái luật pháp và chính sách của quốc gia”. Điều 70 của Hiến pháp nước Cộng hòa tầng lớp chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 được bổ sung rõ hơn: “Công dân Việt Nam có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo đạo nào. Các đạo đều bình đẳng trước pháp luật. Những nơi thờ phụng của các tín ngưỡng, tôn giáo được luật pháp bảo hộ. Không ai được xâm phạm tự do tín ngưỡng, đạo hoặc lợi dụng tín ngưỡng, đạo để làm trái luật pháp và chính sách của Nhà nước”. Tự do tín ngưỡng, đạo là một quyền nhân thân căn bản của công dân cũng được đề cập trong Bộ luật Dân sự, được bảo vệ bằng luật pháp và được cụ thể hóa trong các văn bản quy phạm luật pháp ngày một ở mức độ cao hơn, hoàn thiện hơn. Sau 5 năm thực hành Nghị định số 26/1999/NĐ-CP, ngày 19-4-1999 về các hoạt động đạo đã được thay thế bằng Pháp lệnh Tín ngưỡng, đạo do Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa XI duyệt ngày 18-6-2004 và Chủ tịch nước ký Lệnh ban bố ngày 29-6-2004. Pháp lệnh Tín ngưỡng, đạo ra đời là một minh chứng khẳng định nguyên tắc nhất quán trong chủ trương, chính sách của Đảng và quốc gia Việt Nam là quý trọng tự do tín ngưỡng, tôn giáo. Thực tiễn, những chủ trương, chính sách tín ngưỡng, đạo không phải chỉ được khẳng định ở Hiến pháp, pháp luật hay trong các chỉ thị, quyết nghị của Đảng mà được biểu lộ sinh động trong cuộc sống hằng ngày. Các số liệu được đưa ra tại cuộc tọa đàm về tự do đạo được Đại sứ quán ViệtNam tại Mỹ tổ chức ngày 20-6-2013 ở Oa-sinh-tơn cho thấy, nhận thức và hoạt động tôn giáo tại Việt Nam đã có sự đổi thay rất lớn trong vòng 20 năm qua. Đời sống đạo ở Việt Nam chưa bao giờ sôi động như hiện thời và đang phát triển theo chiều hướng tích cực, tạo ra sự ổn định trong tầng lớp. Số người theo tôn giáo đã tăng từ 22 triệu lên 25 triệu người trong vòng 2 năm, trong khi số đạo được xác nhận đã tăng từ 6 lên 13 trong vòng 8 năm. Rất nhiều tôn giáo có đại diện trong trận mạc giang san và Quốc hội, góp phần củng cố chính sách đại kết đoàn dân tộc. Cũng tại cuộc tọa đàm này, Tiến sĩ Cơ-rít Xây-plơ, chủ toạ Viện liên tưởng toàn cầu (IGE), một tổ chức phi chính phủ Mỹ đang hoạt động tại Việt Nam đã đánh giá cao những tiến triển về tự do đạo tại Việt Nam: “Tại khu vực Tây Bắc, đã có hơn 300 nhà thờ được đăng ký và con số này tại Tây Nguyên là hơn 2000. Ngay trong tuần này, một chủng viện Tin lành đã lần trước hết được đăng ký tại ViệtNam. Lần trước tiên kể từ năm 1975, Chính phủ Việt Nam sẽ tài trợ 150.000USD cho công tác nghiên cứu về vấn đề đạo và pháp quyền. Chúng tôi đồng hành với những gì Chính phủ và quần chúng Việt Nam đang thực hiện. Nếu không có những quyết định tích cực của Việt Nam thì chúng tôi sẽ chẳng thể hoạt động tại đây”. Theo số liệu của Ban tôn giáo Chính phủ (năm 2011), Việt Nam có hơn 25 triệu giáo đồ (chiếm hơn 1/4 dân số), trong đó Phật giáo khoảng 10 triệu người, thiên chúa giáo 6,1 triệu, Cao đài 2,4 triệu, Hòa hảo 1,2 triệu, Tin lành 1,5 triệu và Hồi giáo khoảng 100.000. Nếu kể các hành vi thờ cúng tiên sư, thành hoàng, vua Hùng… thì hầu hết người Việt có tâm linh tôn giáo. Song điều quan trọng là, mọi sinh hoạt tôn giáo ở ViệtNam đều diễn ra bình thường, không gặp bất cứ sự ngăn trở nào. Những ngày lễ của các đạo được tổ chức trang trọng theo đúng nghi thức tôn giáo, lôi cuốn sự tham dự đông đảo của các tín đồ với ý thức hào hứng, yên tâm và tin vào chính sách đạo và luật pháp của quốc gia Việt Nam, đồng thời bảo đảm trật tự an toàn từng lớp. Quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo là một trong những quyền căn bản của con người, được ghi nhận tại Điều 18 Tuyên ngôn nhân quyền toàn thế giới năm 1948 và được phát triển đầy đủ hơn trong Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị năm 1966 của liên hiệp quốc. Điều 18, khoản 3 của Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị nói về quyền tự do tôn giáo đã xác định: “Quyền tự do thông tõ đạo hoặc tín ngưỡng chỉ có thể bị giới hạn bởi pháp luật và khi sự giới hạn đó là cấp thiết để bảo vệ an ninh, trật tự công cộng, sức khỏe hoặc đạo đức xã hội, hoặc để bảo vệ các quyền và tự do cơ bản của người khác”. Như vậy, theo quan điểm của liên hiệp quốc và cộng đồng quốc tế, dù rằng là một quyền cơ bản của con người, nhưng quyền tự do tín ngưỡng, đạo không phải là tuyệt đối, mà là một quyền có giới hạn. Sự giới hạn đó là cấp thiết nếu việc thực hành quyền này xâm hại tới an ninh nhà nước, trật tự từng lớp, sức khỏe cộng đồng hoặc quyền và tự do cơ bản của người khác. Nói cách khác, ở bít tất các nước, các loại hình tổ chức tôn giáo đều được tự do hoạt động nhưng phải trong giới hạn của Hiến pháp và luật pháp. Mọi hành vi hoạt động đạo gây hại đến an ninh nhà nước, thứ tự, an toàn xã hội, vi phạm đạo đức và các quyền của người khác… đều bị cấm và nghiêm trị theo luật pháp. Thành ra, những kẻ lợi dụng tôn giáo để trục lợi cá nhân, thực hiện những hành động chống chính quyền, gây mất ổn định thứ tự tầng lớp thì phải bị xử lý thỏa đáng. Chúng ta cũng cương trực nhấn rằng, trong những năm qua, hoạt động đạo và công tác quản lý Nhà nước về đạo vẫn còn một số lỗi ở một đôi địa phương, trong một số vụ việc cụ thể. Thế nhưng, về căn bản, lãnh đạo các chức sắc đạo tại ViệtNam và đông đảo những người có lương tri trên thế giới đến thăm Việt Nam đều dìm những thành tựu to lớn của nước ta trên lĩnh vực đạo. Có thể kể đến đánh giá của Thượng nghị viên Mỹ Gim-oép-bơ (Jim Webb) sau chuyến thăm Việt Nam năm 2009 rằng: Cho dù vẫn còn những ý kiến cá nhân chủ nghĩa về một vài vụ việc cụ thể, song không thể phủ nhận những tiến bộ về tự do đạo tại Việt Nam, nhất là từ năm 1991 đến nay. Thứ trưởng Ngoại giao Tòa thánh Va-ti-căng Ba-lê-xtre-rô trong chuyến thăm ViệtNam (tháng 2-2012) đã ghi nhận: Chính phủ Việt Nam đang cầm cố thực hiện nhất quán và không ngừng hoàn thiện chính sách trọng và bảo đảm tự do đạo của người dân. Ngay cả Báo cáo tình hình tự do đạo quốc tế năm 2012 của Bộ Ngoại giao Mỹ (công bố ngày 20-5-2013), phần đánh giá về Việt Nam cũng phải ghi nhận: “Đã có những dấu hiệu cải thiện, như cấp phép đăng ký cho các giáo đoàn mới, cho phép mở mang các hoạt động từ thiện và cho phép tổ chức các buổi lễ đạo quy mô lớn với trên 100.000 người tham dự”... Bởi vậy, có thể nói việc Ủy ban Đối ngoại Hạ viện Mỹ đã thông qua cái gọi là “Dự luật nhân quyền Việt Nam” (HR 1897) ngày 28-6-2013, do hai nghị sĩ Đảng Cộng hòa Ét Roi-xơ (Ed Royce) và Cơ-rít Xmit (Chris Smith) đề xướng là một việc làm đáng tiếc, tạo ra sự ảnh hưởng không tốt cho quan hệ giữa hai nước Việt Nam - Hoa Kỳ. Đại tá, TS VŨ HỒNG KHANH |