Là một nước thuộc vùng nhiệt đới gió mùa, Việt Nam có bờ biển dài hơn 3126 km, thềm đất liền rộng với hàng ngàn đảo giầu nguồn lợi thủy hải sản, dầu lửa, khoáng sản, vật liệu hydrat, muối,… Cùng với tài nguyên biển đảo là hệ thống cảng biển nước sâu ( Cam ranh, Dung Quất, Vân Phong, Vũng Áng, ...), Nhiều vịnh đẹp và bãi biển nức danh, như Hạ Long, Nha trang, Cam Ranh, Vũng Tàu, .... Dọc theo bờ biển chạy dài còn sao bãi cát đẹp có thể xây dựng thành những trung tâm du lịch, nghỉ dưỡng, các resort, bãi tắm có tầm quốc tế. Tài nguyên và thế mạnh biển hiện có cho phép chúng ta khẳng định, Việt Nam hoàn toàn có điều kiện thuận lợi để trở nên một trong những cường quốc về kinh tế tế biển. Các thành phố cảng nổi danh thế giới nói trên trong giai đoạn đầu đều là những đầu tàu kinh tế của Mỹ, Hà Lan và Nhật Bản. Cùng với sự trỗi dậy của nền kinh tế châu Á, khối lượng hàng hóa giao tế tăng lên nhanh chóng, trong khi hàng không không đủ sức bảo đảm, thì vận chuyển đường biển càng ngày càng có vai trò cốt lõi. Hàng hóa sẽ từ Trung Quốc, Ấn Độ hay Thái Lan, Campuchia, Lào... Đi ngang qua Việt Nam để đến với thế giới và ngược lại, sẽ là nhịp để dịch vụ cảng biển Việt Nam có được những nguồn thu to lớn. Gần đây, bằng sự phát triển nhanh chóng của ngành công nghiệp đóng tầu cho phép chúng ta tin tức rằng, Việt Nam đủ sức và có thể chiếm lĩnh được thị phần cao trong dịch vụ cảng biển, cũng như vận chuyển biển. Quy mô bốc xếp hàng hóa có thể đạt tới 600 triệu tấn/năm, lớn hơn cảng trung chuyển quốc tế Singapore (quy mô 400 triệu tấn hàng hóa/năm) và cảng trung chuyển quốc tế Rotterdam, Hà Lan (quy mô 500 triệu tấn hàng hóa/năm). Theo thông báo mới nhất, tàu của hãng Mal (Hà Lan) với trọng tải 100.000 tấn đã ra vào thành công tại khu vực Cụm cảng. Điều này mở ra một triển vọng cho Cảng Cái Mép - Thị Vải (cảng lớn nhất thuộc Cụm cảng biển số 5) trở nên một cảng trung chuyển quốc tế hàng đầu trong tương lai. Ngoài ra Cụm cảng biển số 5, Miền Trung và Miền Bắc cần tuần tự tập hợp phát triển cảng Vân Phong và cảng Lạch Huyện. Việc phát triển ngành khoa học biển sẽ góp ngôn ngữ vào việc quy hoạch dùng không gian các vùng duyên hải, cận duyên, đặc biệt là quy hoạch hệ thống cảng biển sao cho hiệp với quy luật tự nhiên. Đặc biệt, cần chú trọng hướng vào xây dựng và phát triển các ngành kinh tế biển cốt yếu, đó là: Phát triển và áp dụng công nghệ cao trong khảo sát, điều tra, thăm dò tài nguyên biển và đại dương; vỡ hoang và chế biến hải sản; Dò xét và phá hoang dầu khí; dò xét và khai phá khoáng sản biển; Du lịch biển; Dịch vụ cảng biển và không gian biển; Công nghiệp tầu thủy và vận chuyển biển… Phải dùng công nghệ cao trong hàng loạt các hoạt động dò hỏi và vỡ hoang biển như: Công nghệ khẩn hoang năng lượng biển; Công nghệ thăm dò và khai hoang hải sản xa bờ; Công nghệ sinh vật biển, nghiên cứu chính yếu để tạo ra các giống nuôi trồng mới ưu việt, các giống có tính đột phá để đẩy mạnh quá trình nuôi sản phẩm biển. Công nghệ vỡ hoang các loại dược phẩm, nghiên cứu vai trò tính tự nhiên của sinh vật biển, từ trong các sinh vật biển rút ra những kháng khuẩn, các chất độc kháng bệnh, kháng khối u, kháng già hóa, tạo nên những dược phẩm mới và thực phẩm sinh dưỡng tốt; Công nghệ dò la vỡ hoang tài nguyên khoáng sản đáy biển, nhất là công nghệ khai hoang dầu khí, công nghệ khai phá kim khí đáy biển. Công nghệ tổng hợp tài nguyên biển, trong đó có công nghệ làm nhạt nước biển, công nghệ tách, rút các nguyên tố: K, Br, Li, U từ nước biển; Công nghệ thăm dò môi trường biển để tăng khả năng dự báo về môi trường biển, ngừa thiên tai, tăng năng lực bảo vệ môi trường biển…song song, trong quá trình đó, cần có sự đầu tư, phối hợp, nghiên cứu một cách toàn diện để tạo thành sức mạnh tổng hợp, phối hợp được chặt chẽ giữa quốc phòng với, khoa học công nghệ biển, kinh tế, chính trị trên biển. Quốc phòng trên biển mạnh sẽ là chỗ dựa cho bà con ngư gia, các lực lượng ra làm ăn trên biển. Lịch sử của ngành đường biển thế giới cho thấy kinh tế biển luôn được coi là ngành mũi nhọn, trong đó vai trò chủ đạo là cảng biển. Nơi nào có cảng biển, nơi đó sẽ là thành thị với kinh tế, công nghiệp và giao thương phát triển. Mặc dù Việt Nam đã có một số cảng “tầm cỡ khu vực”, “tầm cỡ thế giới”. Nhưng trên thực tế, nước ta vẫn chưa có cảng nào có thể tiếp nhận được tàu tải trọng 50.000DWT hoặc tàu container sức chở 3000TEUs. Với những cảng biển hiện có, chúng ta đang rất lạc hậu so với một số nước trong khu vực và trên thế giới. Thành thử, việc xây dựng và phát triển hệ thống cảng biển quốc gia có vai trò to lớn, quyết định đến kết quả sự phát triển của giang sơn. Do vậy, tiêu chí thời kì để quy hoạch cho hệ thống cảng biển quốc gia không thể là 20 năm, mà phải là 50 năm, hay lâu hơn nữa, để tạo điều kiện cho ngành kinh tế biển của Việt Nam có những bước tiến theo kịp và phù hợp với sự phát triển của thời đại. Trong đó, ngoài việc đang hình thành 5 cảng container liên doanh có cùng quy mô cũng để đón tàu container sức chở 6000TEUs cập bến vào năm 2009-2010 ở Vùng kinh tế trọng tâm phía Nam, đặc biệt cần phải tụ tập đẩy mạnh đầu tư ngay vào việc xây dựng một cảng trung chuyển tầm cỡ thế giới (gồm cảng container, cảng tổng hợp, cảng chuyển tải nhiên liệu...), Như Cảng Vân Phong ở nước ta. Định hướng chiến lược đồng thời cũng là ý kiến chỉ đạo đối với sự nghiệp phát triển kinh tế biển Việt Nam là: "Xây dựng và phát triển toàn diện các lĩnh vực kinh tế, tầng lớp, khoa học & công nghệ, tăng cường cũng cố hương phòng, an ninh, làm cho giang san giàu mạnh từ biển, bảo vệ môi trường biển. Phấn đấu đến năm 2020, kinh tế trên biển và ven biển đóng góp khoảng 53-55% tổng GDP của cả nước...". Nếu làm tốt 2 nội dung này, chúng ta sẽ giải quyết căn bản vấn đề an sinh từng lớp, giải quyết được cả 3 vấn đề lớn, mang tính sống còn mà toàn thế giới đang khôn cùng quan hoài, đó là: An ninh lương thực; An ninh năng lượng và An ninh môi trường. Đảm bảo được những vấn đề an ninh nêu trên, cũng là đã giải quyết được những mục tiêu nêu trong chiến lược phát triển bền vững trong những thập kỷ tới của quốc gia. TS.NGUYỄN VĂN LẠNG
|